THÔNG TIN VÀ HÌNH ẢNH BÀI VIẾT ĐƯỢC CAPCOM HỖ TRỢ [dropcap style=”style1″]S[/dropcap]au khi Monster Hunter 3 Ultimate rời bỏ “mảnh đất” Sony để đến với Nintendo và gặt hái được thành công lớn tại đó, các “thợ săn” thiện nghệ đã có dịp trải nghiệm những cuộc đi săn hết sức hào hứng, nhưng cũng không kém phần nguy hiểm với những con quái thú khổng lồ.
Những trận thủy chiến khó khăn lẫn vô số quái vật đáng gờm như Brachydios, Dire Miralis… dẫu có đáng sợ, nhưng sau thời gian xấp xỉ hai năm thì hẳn các thợ săn sẽ cần có những thử thách mới mẻ hơn, mang tính khiêu chiến cao hơn.
Vào đầu năm 2014, Capcom đã chính thức công bố mang Monster Hunter 4 Ultimate đến các nước phương Tây. Tại E3 2014 vừa qua Capcom đã bật mí rằng Monster Hunter 4 Ultimate sẽ cập bến các khu vực châu Âu và Bắc Mỹ nội trong đầu năm 2015.
Trong khi đó, các game thủ tại Nhật Bản đã sớm có dịp trải nghiệm phiên bản Monster Hunter 4 (dĩ nhiên là… tiếng Nhật) từ sớm. Vậy hãy cùng Vietgame.asia tìm hiểu về những điều mới ở Monster Hunter 4 Ultimate thông qua những thông tin từ bản tiếng Nhật!
- Sản xuất: Capcom
- Phát hành: Nintendo
- Thể loại: Nhập vai | Hành động
- Ngày ra mắt: 2015
- Hệ máy: 3DS
- Giá tham khảo: 39.99 USD
Monster Hunter 4 Ultimate sẽ có một chút thay đổi về “Free Hunt”. Dường như nhà sản xuất thấy rằng sẽ chẳng ai muốn bỏ hàng giờ đồng hồ săn quái vật và cuối cùng chỉ có thể mang về được vài món nguyên liệu “lẻ tẻ”, vì thế Capcom đã cho thêm tính năng “Excavated Equipment” (Trang bị được khai quật).
Khi bạn săn trong “Free Hunt” sẽ có tỉ lệ ngẫu nhiên nhận được một “Guild Quest” – nhiệm vụ mà bạn sẽ không biết mình sẽ phải đánh con gì và ở đâu. Và khi bạn săn trong “Free Hunt” hoặc hoàn thành những Guild Quest đã nhận, bạn có thể đào hay được thưởng những “Excavated Equipment” – điều thú vị là, chỉ số của những trang bị này sẽ hoàn toàn ngẫu nhiên (sát thương thuần, sát thương yếu tố, số lỗ gắn ngọc…).
Tuy nhiên “Excavated Equipment” và “Guild Quest” vẫn chưa là tên chính thức trong game, mà chỉ được dịch lại từ phiên bản tiếng Nhật.
Trong khi Charge Blade là một sự kết hợp giữa sự cơ động của Sword and Shield và uy lực của Switch Axe, giúp người chơi có thể dễ dàng đỡ và né những đòn tấn công của quái vật rồi phản đòn lại bằng những cú đánh vô cùng uy lực – thì Insect Glaive đầy uyển chuyển lại có một lối đánh hoàn toàn khác.
Nó sẽ giúp người chơi “cướp” năng lượng từ những con quái vật để tăng sức mạnh, sức phòng ngự, tốc độ hay hồi máu cho bản thân, và Insect Glaive được đặc biệt tạo ra để giúp người chơi dễ dàng thi triển những cú Jumping Attack với mục tiêu quật ngã bất cứ con quái vật nào – trừ những con to quá… không quật được.
Người chơi sẽ được tuỳ chọn cách thực hiện tuỳ theo tình huống (sử dụng Insect Glaive, nhờ đồng đội hay bọn mèo Felyne hất lên, hoặc đơn giản nhảy từ những nơi cao xuống rồi thực hiện Jumping Attack).Về giáp trụ, thì Capcom vẫn tiếp tục phát huy và ngày càng cải thiện hơn trong việc thiết kế những bộ chiến giáp dựa trên hình dáng những con quái vật.
Bên cạnh đó Capcom vẫn giữ nguyên phong cách của mình bằng việc tiếp tục thêm vào những bộ giáp trụ hay vũ khí ở ngoài game (DLC) từ mới cho đến cũ và những món vũ khí do chính người chơi tham gia thiết kế thông qua những cuộc thi sôi nổi.
Và cũng như mọi phiên bản trước, Monster Hunter 4 Ultimate cũng sở hữu một quái vật đại diện (như Brachydios của phiên bản Monster Hunter 3 Ultimate) vô cùng mạnh mẽ.
“Thousand Blade Dragon – Serlegios”: Một con quái thú sở hữu một bộ vảy vàng óng đầy dũng mãnh cùng với cặp chân cứng cáp có thể phá tan mọi thứ, không những thế các Hunter nên tránh dây dưa với bộ vuốt và chiếc sừng vừa dài, vừa sắc của nó nếu không muốn bị xé xác.
Lần đầu tiên Felyne Comrade xuất hiện là trong phiên bản Monster Hunter 3rd Portable trên PSP, hoàn toàn khác với hai chú Shakalaka hỗ trợ các thợ săn trong hai phiên bản Monster Hunter Tri và Monster Hunter 3 Ultimate. Felyne Comrade cho phép người chơi có thể hoàn toàn huấn luyện và tuỳ chỉnh khả năng, tính cách của các chú mèo Felyne đi theo hỗ trợ.
Có hai cách để sở hữu Felyne trong Monster Hunter 4 Ultimate: hoặc là bạn sẽ được cho khi chơi theo cốt truyện của game, hai là bạn có thể tìm được chúng trong khu Free Hunt hoặc thông qua Street Pass.
Tổng số Felyne bạn có thể sở hữu tối đa là 40 (có thể thả bớt nếu muốn). Cũng như người chơi, chúng cũng có thể mặc được những bộ giáp trụ và dùng vũ khí được làm từ các con quái vật để có thể hỗ trợ chủ nhân tốt hơn.
Một điểm đặc biệt ở phiên bản Monster Hunter 4 Ultimate, đó là các chú Felyne sẽ có hai tuyệt kỹ tất sát mới được gọi chung là Union Attack. Chúng trông khá là ngộ nghĩnh và vui nhộn, song sức công phá cũng thuộc hàng vô địch.
Những bản đồ mới này được phân chia các vùng cao thấp một cách rõ ràng từ những vách đá cao, những giàn dây leo hay mạng nhện lơ lửng đến những gờ đá nhỏ để các thợ săn có thể nhảy từ đó làm nền cho những cú Jumping Attack “thần sầu quỷ khốc”.
Cũng giống như những bản đồ kia, “Old Desert” cũng có những chỗ cao thấp khác nhau, đặc biệt hơn tại “ Old Desert” các thợ săn có thể trèo lên, đu qua đu lại giữa các cây dừa rồi bất thình lình thực hiện Jumping Attack để quật ngã hay thậm chí kết liễu con quái vật nào đang nằm dưới gốc cây.
Khi mặc một món giáp trụ, ngoài việc được tăng cường sức phòng ngự và kháng tính, người mặc còn được nhận các điểm kỹ năng đặc thù.
Mỗi bộ giáp sẽ có các kỹ năng khác nhau được phân loại hết sức rành mạch rõ ràng, và khi điểm kỹ năng trên từng món đồ (một bộ giáp bao gồm 5 món: nón, áo, tay, quần, chân) đạt được đến mốc cố định, người mặc sẽ kích hoạt được những cấp độ cao hơn hoặc thấp hơn của kỹ năng trên giáp.
Vẫn như thường lệ, mỗi khi Monster Hunter bước qua một “thế hệ” mới là Capcom xem xét lại hệ thống Armor Skill để gia giảm các kỹ năng để cân bằng game.
Thế nhưng trong Monster Hunter 4 Ultimate này, có vẻ như Capcom đã hơi “quá tay” khi cho ra đời những kỹ năng “bựa nhân” như Acrobatic (Evasion 1 + Constitution 1 + Evade Distance) hoặc Filthy Rich (Capture Expert + Great Luck), vốn là những thứ cực khó đi cùng nhau, hoặc thậm chí là… trừ ngược lẫn nhau trong các bản trước.
Người chơi có thể dùng những nguyên vật liệu hiện đang có của mình trao đổi với tay thương gia này để đổi lấy nguyên vật liệu của những loài quái vật không thể săn được trong game. Những nguyên vật liệu này có thể dùng để làm rất nhiều trang bị của những quái vật tương ứng với một số chỉnh sửa về chỉ số đi kèm.
Để gia tăng số lựa chọn nguyên vật liệu có thể đổi được người chơi phải hoàn thành các nhiệm vụ được yêu cầu, mà đôi rất “oái ăm” và éo le (có ai còn nhớ lão già “dịch vật” Dã Tẩu trong Võ Lâm Truyền Kỳ 1 không?)